21/12/08
Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ
Tại sao vậy?
Tuy là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chánh. Rừng U Minh hạ thuộc về loại trầm thủy (1) cá sanh sôi nẩy nở rất nhanh chóng; lên đó tha hồ mà ăn.
Ðến mùa nắng hạn rừng khô, sấu khỏi phải trở về sông Cái. Trong rừng có sẵn nhiều ao, nhiều lung (2), sấu cứ gom vào đó mà lập căn cứ sanh con đẻ cháu, năm này qua năm khác, cứ như vậy cho tới khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được chừng năm mười con sấu ở ngọn rạch họ đinh ninh cho là sấu đã giảm bớt... Mười phần chết bảy còn ba. Mãi đến khi có người lên rừng ăn ong (3) chạy về loan báo:
- Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng!
So sánh như vậy, không phải là quá đáng! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn (4). Sấu nổi lên, chen vào những bức tranh mầu xanh ấy những vệt đen chi chít: con thì nằm dài như chiếc xuồng lường (5), con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá. Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế. Dân làng nhìn nhau như ra lịnh rút lui. Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh (6). Nó là "sấu chúa" sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài người. Khi ở trên cạn, sấu không nguy hiểm bằng một con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toan dụ địch thủ vào hang của nó nơi nước sâu. Trong số người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông (7), lao, ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng. Ðằng này, sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì ao quá cạn, còn đi bộ xuống thì lún ngập gối.
Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đãi lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo (8), tức là vùng Rạch Giá ngày nay. Ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọng nhang trần (9) và một hũ rượu.
Từ sớm tới chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành
Hùm tha, sấu bắt
Bởi vì thắt ngặt
Manh áo chén cơm
U Minh đỏ ngòm,
Rừng chàm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...
Giọng nghe ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kỹ. Ðoán chừng ông lão nọ là người có kỳ tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãi.
Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo:
- Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm này...
- Té ra ông thợ câu sấu!
Ông Năm Hên lắc đầu:
- Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó khác nhau.
Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Ðó là ở dưới nước. Ðằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.
- Vậy chớ ông bắt bằng gì?
- Tôi bắt bằng... hai tay không.
Ai nấy ngạc nhiên. Ông Năm Hên cười giòn:
- Bà con cô bác không tin sao?
Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu. Không lẽ ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này! Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức.
- Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng? Nếu cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. ở xóm này thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.
Ông Năm Hên đáp:
- Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu đó. Có vậy thôi! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: ảnh bị sấu ở Ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Ðầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như vậy, cũng như phá Tam Giang, truông nhà Hồ của mình ngoài Huế.
Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản lại:
- Ði nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch đi theo coi mà.
Ðã quá giờ ngọ.
Ngóng về phía ao sấu U Minh hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó, bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời về xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi:
- Bà con ơi! Ra coi sấu... Bốn mươi lăm con còn sống nhăn.
Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.
- Diệu kế ! Diệu kế! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè! Một đời người mới có một lần.
Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc kê trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm bao? Người thì đứng há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị trừng phạt của quỷ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít.
Ðại khái Tư Hoạch trình bày:
- Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng (10) đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ông biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi (11), chặt ra khúc chừng ba tấc.
Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sau khi bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ông Năm Hên xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình.
- Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thực quá cao cường. ổng đâu rồi? Sao không thấy ổng về? Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao?
Tư Hoạch nói:
- Mà quên! ổng biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng "đất đai vương trạch" (12) rồi đi bộ về sau.
Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...
Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.
- Coi tướng của ổng ghê như tướng thầy pháp! Một người thốt lên như vậy.
Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ?./.
Sơn Nam
---------------------------------------------------------------------------
(1). Trầm thủy: Loại đất thấp ngậm nước.
(2). Lung: đầm nhỏ, sình lầy cạn.
(3). Ăn ong: lấy mật ong trong rừng.
(4). Dây cóc kèn: loại cây dây leo ở rừng nước mặn bền chắc, dùng để trói buộc rất tốt.
(5). Xuồng lường: xuồng được làm bằng một cây đục thành (xuồng độc mộc).
(6). Tam tinh: điểm ở trán, giữa hai mắt.
(7). Mác thông: mác có cán dài.
(8). Kiên Giang đạo: đạo là đơn vị hành chính thời xưa tương đương một châu, một quận.
(9). Lọn nhang trần: bó (lọn) nhưng không có bao (trần). Nhà nghèo dùng loại nhang này, vì rẻ tiền.
(10). Xuổng: thuổng (dụng cụ để đào đất).
(11). Mốp tươi: loại cây như cây vông, gỗ xốp, dẻo, có thể làm nút chai hay cốt mũ. Cá sấu ngậm phải khúc gỗ mốp, hai hàm răng dính chặt không há miệng ra được nữa.
(12). Cúng "đất đai vương trạch": cúng thần cai quản đất đai (vương trạch, thực ra là viên trạch, nghĩa là vườn đất, dân gian nói trệch ra là vương trạch).
Mời đọc thêm những truyện khác của Sơn Nam
4/11/08
Ông Già Xay Lúa
Chú phó hương quản ngạc nhiên, chưa dám trả lời. Ðây là lần đầu tiên mà chú nghe cậu xã Nê tuyên bố lạ lùng như vậy. Cậu xã là người thanh niên độc nhất ở U Minh làng Ðông thái này thi đậu bằng cấp tiểu học, học trường của nhà nước ở chợ. Nhiều lần, cậu xã giải thích riêng cho chú hiểu: tên Nê của cậu do chữ Tây Rờ-Nê, Rê-Nê gì đó mà ra. Chính cậu xã phổ biến cách chào hỏi mới, bắt tay “bủa xua” với ông đại hương cả. Mỗi kỳ đi hầu ông Ðốc Phủ Xứ chủ quận, cậu xã Nê không mặc áo dài, đội khăn đống như mấy ông hương chức khác. Cậu diện áo bành tô, cổ thắt “cà ra quách”. Lại còn một việc lẫy lừng kì ác, thiên hạ đồn phong phanh chớ chú không chứng kiến tận mắt: năm ngoái, lúc ông Chánh Soái đi tàu tới Cạnh Ðền mang theo sắc thần của Bảo Ðại phong cho Hoàng tử Cảnh, cậu xã Nê bắt tay “bủa xua” với ông Chánh Soái, rồi “bật” tiếng tây rôm rốp khiến quan Ðốc Phủ Sứ, mấy thầy thong thầy ký và tất cả hương chức hội tề các làng trong quận đều khâm phục...
Cậu xã Nê nhắc lại câu hỏi khi nãy:
- Phải không chú phó hương quản, Tây cai trị đem lại lắm điều dở, chú nghĩ coi.
- Ðiều gì vậy cậu. Tôi thiếu hiểu.
- Cờ bạc lộng quá. Dân mình như tự do cờ bạc suốt năm. Ở chợ Ngã Năm, ở chợ Xẽo Rôn nhà “xẹt” đông nghẹt dân nghèo.
Chú phó hương quản suy nghĩ, giải thích:
- Tại cái máu cờ bạc. Dân miệt này toàn là người tứ xứ tới làm ăn. Họ cờ bạc không cần ăn thua, cốt để khuây khỏa nỗi nhớ nhà.
- Không phải đâu! Tại họ ở không, quanh năm chỉ làm một nghề ruộng hoặc một nghề đốn củi. Thiếu tiểu công nghệ...
- Thưa cậu, tiểu công nghệ là cái gì?
- Là thuộc da, dệt chiếu, may quần áo... Làng mình không có thứ tiểu công nghệ nào để cầm chưn họ.
Vùng rừng bùn lầy, khai thác chưa xong, làm sao họ nói đến tiểu công nghệ? Chú phó hương quản mải lục soát trong trí nhớ. Làng gồm bốn ấp, tháng Tết rảnh rang, ai nấy bỏ nhà đi chơi. Ấp Ðông Bình, sát mé biển chuyên về chài lưới; thường thường mấy tay khá giả ở đó đi ghe ra chợ Rạch Giá đánh me, đánh vố. Hết tiền thì họ ngồi nhà mà đờn ca vọng cổ hoặc nói chuyện tiếu lâm. Hồi mùng ba Tết, chú phó hương quản đến đó một lần, họ kéo chú lại bắt ép uống rượu đến say mèm rồi mới chịu thả ra. Vui quá! Lại còn “ông Năm xay lúa” từ ngoài hòn Cổ Trơn vào xay lúa mướn! Thiên hạ bao vây ổng, hỏi han rối rít. Cái ông già này mới cừ khôi, đứng xay từ hừng sáng tới mười giờ đêm mà không nghỉ tay, sắc mặt luôn luôn tươi rói. Bất chấp Tết nhứt, ông ra nghề từ bữa mùng bốn, xay lúa ròng rã tới hôm nay, ai cần thì cứ gọi ông đến cho vui nhà vui cửa.
Chú phó hương quản nói:
- Ở xóm biển có người chuyên môn xay lúa mướn. Ðó là tiểu công nghệ, phải không cậu ba?
Cậu xã Nê gật gù:
- Không phải... nhưng mà có còn hơn không. Ai xay vậy?
- Dạ, ông Năm ở hòn Cổ tron mới vô.
Nghe qua, cậu xã như bị điện giựt, nhảy nhổm, sáng mắt lên:
- Chú nói sao! Hòn Cổ Tron à! Thiệt không?
- Dạ, thiệt chớ.
- Trời đất ơi! Mấy năm rồi tôi muốn biết cho rành cái... tụi người đó. Kỳ cục lắm kia. Tôi thấy tận mắt một lần mà còn nhớ, còn giận hoài. Họ ở truồng.
Chú phó hương quản ngạc nhiên:
- Sao lạ vậy cậu? Ông già này... có bận quần. Hằng năm mùa Tết ổng vô đây xay lúa mướn. Qua tháng mưa, ổng thất nghiệp trở về hòn; ổng đui hết một con mắt, nói chuyện sành sỏi, nghe ngộ lắm.
- Ðây là lần thứ nhì tôi gặp họ... Nếu không ở truồng thì họ cũng mang vô đây vài phong tục lạ lùng. Chú đốt đuốc mau. Mình đi kiếm ổng nói chuyện... Dịp may hiếm có.
Còn trắng đêm hai mươi lăm u ám quá; hai thầy trò đốt đuốc soi đường. Mùa hạn, đồng trống hoang cây cỏ héo cằn, con rạch khô cạn. Ði bộ trong làng rạch đã mát chân lại được bảo đảm nạn rắn rít.
Gió biển hiu hiu, hơi lạnh như gió bấc, muỗi bay thưa thớt từng con bên cây đèn tọa đăng, tuy vặn tim lên cao nhưng mãi lu câm vì ống khói không chùi sạch. Ông Năm nắm tay vào giàn xay, đưa tới lui. Thớt cối quay tròn, lúa phun ra kêu rồ rồ, vang đều đều, mãi rồi sanh nhàm tai, buồn ngủ, cơ hồ không có. Kế bên ông Năm, đờn dìm trổi giọng, không na ná tiếng gà mổ vào nia. Ðờn “ghi ta” hòa theo, tuy nhanh nhưng buông rõ rệt từng giọt đồng, kém dồn dập hơn giọng đờn ở bên Tây Ban Nha tuyệt vời. Bãi biển sình lấy của vịnh Xiêm La chứng tỏ đủ năng lực hấp thụ và đồng hóa những gì xa lạ!
Năm ba bạn bè đang nghe bài Tây Thi quốc sự, nhắc gương chiến đấu của nhà chiến sĩ quốc gia Phan Châu Trinh, Mấy chai “ắp xanh”, “con cọp đen” rượu rừng... lần lần cạn. Tuy bận rộn xay lúa nhưng ông Năm vẫn lắng nghe, thưởng thức. Bỗng có kẻ chạy vào như tên quân trong tuồng hát bội cấp báo:
- Thầy xã với phó hương quản tới. Nghe không! Hai chả đốt đuốc... Lặn hụp giữa ruộng nãy giờ. Tôi thấy rõ ràng.
Ai nấy ngưng đờn ca. Ông Năm vẫn xay lúa rồ rồ... Họ vừa nói vừa cười, cãi cọ qua lại một cách thân ái:
- Mấy chả gan mật cùng mình sao kìa! Hồi nào tới giờ họ chưa đặt chân tới xóm mình. Chắc có chuyện gì, mình ăn thua đậm.
- Nói bậy đi. Hễ không tới thì chê nghười ta nhát, kiêu căng. Bây giờ người ta tới thì công kích. Thầy xã này là người có âm đức. Ba của thẩy, chú của thẩy hồi đó hiền lắm.
- Hiền đâu không thấy, chớ tôi hồ nghi mấy “chả” toan xét giấy thuế thân đặng mà dằn mặt tụi mình.
- Tết mà, thẩy đâu dám. Tôi nghi thẩy làm “ăn kết” dân lạ mặt, thí dụ như ông Năm xay lúa. Mình cứ trả lời rằng đã trình diện ổng với ông chủ ấp. Chủ ấp của mình bữa nay đi vắng, dể nói dốc quá, đâu có mặt mà đôi chối. Nè ông Năm! Ngừng tay lại, nghe tôi dặn: Lát nữa, ai có hỏi, ông làm bộ như câm, như điếc. Nói chuyện nhiều, nguy lắm. Ông có “giấy lão” không?
Ông Năm nói:
- Không có giấy tờ gì hết. Tôi tàn tật hư một con mắt mà... Muốn dẫn tôi đi đâu cũng được... Theo lẽ, nhà nước phải nuôi tôi nữa kìa.
- Cha này coi vậy mà gan ta!
Ánh đuốc sáng lòe trước cửa. Ai nấy lặng im. Chú phó hương quản đập đuốc xuống đất để dụi tắt. Cậu xã Nê bước vào, trong khi ông Năm mải xay lúa rồ rồ.
Cậu xã tươi cười, khoát tay như bảo ai nấy cứ ngồi xuống, đừng đứng dậy chào.
- Ðược! Ðược! Phiền bà con quá. Tết năm nay đầy đủ không? Ðờn địch vui quá hả? - Thầy nói.
Một người đáp lại:
- Dạ, nhờ... “bà cậu” nên năm rồi cũng khá, tạm đủ tiền xây xài.
Chú phó hương quản lườm mọi người:
- Bà con ăn nói vô ý tứ quá. Tại sao nhờ... “bà cậu”? phải nhờ người này người kia chớ. Còn ông già kia sao xay lúa hoài vậy? Nghỉ một chút để người ta nói chuyện. Bữa nay cậu xã tới...
Cậu xã ngắt lời:
- Ổng xay để ổng xay. Nếu dân mình ai nấy đều siêng năng như vậy thì quý lắm.
- Dạ đó là ông già Cổ Tron mà tôi nói hồi nãy với thầy.
Cậu xã hơi phật ý vì thái độ quá sốt sắng của người cộng sự:
- Chú phó hương quản để mặc tôi. Tôi không muốn làm rầy ổng.
rồi giọng thầy ôn tồn:
- Ông ở hòn Cổ Tron hả! Làm gì sanh sống ở ngoải?
Ông Năm ngưng tay, trả lời:
- Dạ, tôi đốn câu săn đá để làm cối giã gạo, bán cho bà con trong bờ này.
- In là ông hư một con mắt?
- Dạ bẩm, tôi tàn tật hồi còn nhỏ chớ không phải vì nghề... cầm búa.
Một người nói tiếp như muốn chứng minh sự lương thiện của ông Năm:
- Thưa thầy, ổng giỏi lắm. Nghèo là tại trời... vậy thôi! Cây săn đá ngoài hòn Cổ Tron bền tới thiên niên. Cối bằng săn đá giả gạo mau trắng. nhịp chày vô nghe bon... bon như thiếng chuông đồng. Ở nhà đằng kia, còn một cây cối thứ đó.
Cậu xã gật đầu:
- Ðó là tiểu công nghệ, nghe không chú phó hương quản.
Rồi cậu ngắm nghía ông Năm. Nỗi thắc mắc của cậu vẫn chưa giải tỏa. Không lẽ dân ở hòn Cổ Tron lại siêng năng, khéo léo, hiền hậu tới mức này. Day qua mấy cây đờn, mấy chai rượu, cậu như hối hận:
- Bậy quá! Làm lỡ cuộc vui chơi của bà con anh em. Thôi “làm” một bản vọng cổ nghe coi! Lựa thứ nào văn chương hay một chút.
Vọng cổ mà văn chương hay! Họ rao sơ sơ rồi bắt đầu:
- Ác ngậm non Ðoài, ngọn gió Ðông Nam nó thổi đưa mặt nhựt hồi về nơi Tây Bắc...
Anh ca sĩ ngạc nhiên, tức tồi vì thình lình cậu xã dơ tay lên, ra dấu hiệu chận lại, thiệt không đúng “điệu”! hay là cậu hồ nghi câu hát này ẩn ý chuyện quốc sự, sấm truyền? Hồi lâu, cậu xã mới nói:
- Câu hát khó hiểu quá! Rắc rối và lại vô duyên.
Anh ca sĩ cãi lại:
- Thưa cậu, đó là tả cảnh chiều, gió thổi nhè nhẹ mặt rời sửa soạn lặn... Bài này trích trong cuốn Vọng cổ Bạc Liêu bán tại chợ Rạch Giá.
- Tôi hiểu... Bài ca lăng nhăng quá, trật sách vở khoa học. Tại sao mọc ở Ðông Nam rồi lặn ở Tây Bắc?
Anh ca sĩ nhìn qua ông Năm như cầu cứu. Cậu xã nói cố ý:
- Ông già xay lúa này cắt nghĩa thử coi. Tôi nói câu hát trật văn chương mà!
Ông Năm vừa xay lúa vừa nói chậm rãi:
- Dạ, lệ thường mặt trời mọc hướng Ðông lặn hướng Tây. Nhưng gần sa mưa hay gần Tết thì mặt trời đi xéo. Vì vậy ngày và đêm không đều, “tháng năm chưa nằm thì sáng, tháng mười chưa cười thì tối”. Từ Ðông Nam hồi về Tây Bắc, tức là bài ca vọng cổ muốn nói lúc tháng mười; ngọn gió đó là gió Tết. Mặt trời ít khi đi ngay hướng Ðông Tây, thưa cậu.
Cậu xã Nê hoảng hồn vì dường như ông già xay lúa nọ nói đúng, đúng theo cuốn sách địa lý mà cậu đã học. Nhìn nhận rằng ổng nói đúng thì e mất thể diện mình, cậu đánh trống lảng:
- Ông học điều đó ở đâu vậy? Ai dạy ông?
- Dạ, không ai dạy hết. Tôi nghiệm ở hòn Cổ Tron. Ở ngoải buồn lắm. Tối ngày, tôi coi mặt trời mọc, mặt trời lặn cho khuây khỏa. Ðiều đó, lần lần tôi hiểu được, không rõ hồi nào.
Cậu xã Nê hơi tức giận. Chú phó hương quản nãy giờ ngồi im lại nói:
- Ông biết cái gì ông ơi! Hòn Cổ Tron là nơi quê mùa, còn tệ hơn quê mùa nữa kìa! Dân hòn Cổ Tron chuyên môn ở truồng, đàn ông đàn bà gì cũng vậy, cậu xã của tôi biết rõ.
Anh em đờn ca cảm thấy áy náy vì bầu không khí hơi bất hòa. Họ muốn an ủi cái thể diện của cậu xã mà họ không hề thù oán. Sẵn câu nói này, họ đồng hè trả lời:
- Cậu xã hay quá! Ở ngoài hòn Cổ Tron có gì lạ vậy cậu, tụi tôi chưa biết. Ông Năm xay lúa mới ra hòn lúc sau này, chắc cũng chưa biết, Xin cậu nói lại cho tui tôi nghe.
Thích chí, cậu xã Nê thuật lại:
- Năm đó, hồi còn nhỏ mỗi ngày tôi đi học, từ nhà muốn tới trường thì phải quẹo ra sân banh sát mé biển chợ Rạch Giá. Bữa đó, hừng sáng, dân chài lưới la hoảng chạy về baó với ông cò Tây. Tôi tới nơi xem: rõ ràng trên bãi biển có hai người đờn ông, hai người đờn bà nằm dài lim dim con mắt, miệng chúm chím cười. Họ ở truồng đông đổng! Chập sau, thầy đội mã tà ra tới, Thẩy kêu mấy người đó. Họ nhúc nhích rồi nằm yên. có người bàn: “Chắc họ bị chìm ghe ngoài biển khơi trôi tấp vào đây, dọc đường họ cởi quần áo để thân thể nhẹ nhàng, tiện bề bơi lội. Họ ở xa lắm, không chừng ở ngoài hòn Cổ Tron”. Nghe qua họ vẫn chúm chím cười. Tiếng đồn ngày một lẹ, mấy người ở chợ kéo nhau đến nghẹt tới mé biển mà coi cho rõ hư thiệt. Ông cò Tây hoảng sợ, thầy đội mã tà cũng hoảng sợ. Làm sao giải tán được? Làm sao che giấy chuyện ở truồng đó được! Sau rột, ông cò Tây bèn sai lính mã tà qua chợ mua bốn chiếc chiếu đem xuống mé biển, phát cho mỗi người một chiếc, biểu họ quấn chung quanh mình rồi lên bờ. Họ không trả lời. Mấy người mã tà bắt buộc họ đứng chính giữa, rối căng chiếu che bốn bên, dẫn họ về bót. Họ bằng lòng đi. Cái cảnh lạ lùng quá, như công chúa ngày xưa đi tắm có tỳ nữ che rèm bốn bên.
- Hay quá vậy câu xã. Nói tiếp nữa đi.
Cậu xã nói tiếp:
- Ông cò không chịu chứa mấy ông bà ở hòn Cổ Tron này trong bót, e xui xẻo. Ổng ra lịnh giam họ bên nhà việc (nơi làm việc của chính quyền ở làng, xã) làng Vĩnh thanh Vân. Mấy ông hội tề đành giam giữ họ.
- Rồi họ chịu bận quần áo không? Có người hỏi.
- Chịu chớ sao không chịu. Hương chức làng xuất tiền công nho, may cho mỗi người một bộ vải xiêm láng. Họ cười, không nói không rằng, ra về.
Rồi cậu xã kết luận:
- Ðó, mấy người ở hòn Cổ Tron theo tôi thấy rõ ràng thì như vậy đó. Ông Năm xay lúa nghĩ sao?
Ông Nam mỉm cười, trả lời rằng không biết. Chú phó hương quản nói:
- Hồi đó, chắc ông già này có tham dự quá!
Ai nấy cười rộ. Cười để làm thỏa mãn lòng tự ái của cậu xã, hàng chấm dứt câu chuyện cho đúng lúc.
Cậu xã, chú phó hương quản đốt đuốc ra về.
o0o
Ông Năm lại tiếp tục xay lúa. Ông nói:
- Tôi không biết cái chuyện ở truồng này! Chẳng qua là thiên hạ hiểu lầm hòn Cổ Tron. Mấy người ở truồng nào đã tự xưng quê quán, danh tánh. Như cậu xã nói, họ im lìm từ hồi đầu mùa kia mà! Cậu xã nói thiệt chớ không nói dóc đậu.
- Vậy thì vụ đó là vụ gì?
- Vụ này tôi nghe nhiều lần phong phanh. Tôi hồ nghi đó là mưu mô của mấy người nào đó ở gần chợ rạch Giá. Vì thiếu quần áo – nên nhớ là năm đó đồ khổ lắm, họ liều thân làm xấu để xin quần áo của nhà nước. Nhà nước sợ họ; họ đã thành công. Dễ gì đi làm mướn một buổi sáng mà sắm được bộ quần áo, hồi năm quần bao áo bố đó!
Ai nấy khen ngợi:
- Ông Năm chắt nghĩa hay quá!
- Tôi nhắm chừng vậy thôi. Người trong cuộc họ hiểu rõ sự thật hơn tôi. Họ không nói gì thì làm sao mình biết; sự thiệt nó im lặng, không có lời nói. Bây giờ chắc họ cũng không muốn nói ra, e bị ở tù về tội gạt hương chức làng.
- Vậy mình cũng nên kêu cậu xã trở lại, nói cho cậu nghe. Cắt nghĩa như vậy chắc cậu chịu lắm mà lại còn phục tài người ở hòn Cổ Tron như ông đây.
Ông Năm lẩm bẩm:
- Ðừng kêu trở lại nửa chừng; ban đêm, cậu hồ nghi. Ðể cậu về ngủ. khuya, gió lạnh lắm. Mà chưa chắc cậu chịu nghe. Nhưng không sao. Năm mười năm nữa, chừng tóc bạc hoa râm cậu hiểu một mình, không cần ai cắt nghĩa. Muộn gì!
Mời đọc thêm những truyện khác của Sơn Nam
27/9/08
Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư
- Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy?
Thầy xã trưởng đáp:
- Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Ðể tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó tới công sở...
Thầy phái viên nhà báo “Chim Trời” giựt mình.
- Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quý độc giả thân mến gần xa.
Thầy xã hỏi:
- Phái viên là gì vậy thầy?
- Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thâu tiền.
- À! Bây giờ tôi mới biết cái thằng Tư Có. Nó thiếu tiền của nhà báo hả? Hèn chi nó bơi xuồng lên công sở lãnh báo, đúng bảy bữa là có mật nó. Nghèo không biết thân lại còn bày đặt làm sang mua báo không trả
tiền!
Thầy phái viên cố nén sự bực tức khi nghe người độc giả thân mến của mình bị thầy xã khinh khi; thầy hút thuốc suy nghĩ rồi lại hơi buồn buồn mà nhớ đến sự thất bại về tài chánh.
Ông độc giả Trần Văn Có thiếu sáu tháng tiền báo tức là hai đồng sáu cắc rưỡi. Từ chợ Rạch Giá vô đây,thầy đã tốn gần ba cắc rưỡi tiền tàu, tiền thuốc hút. Chuyến về lại phải xuất thêm ba cắc nữa... Ông độc giả nghèo nàn này chắc gì trả được một đồng trong số tiền thiếu chịu nhà báo!
Nhưng đã tới đây rồi mà trở về thì uổng cuộc viễn du Hậu Giang này quá! Thầy phái viên quyết tình binh vực thể diện của người độc giả nọ:
- Không phải tôi đi đòi tiền! Tôi đi dò hỏi ý kiến bạn đọc đối với tờ báo. Tiền bạc là quý... Nhưng ý kiến của bạn đọc lại quý hơn. Ðộc giả ở tới đâu, chúng tôi đi tới đó.
Sau vài phút đi tới đi lui, thầy xã gất đầu:
- Ðược. Ðể tôi biểu thằng “Trạo” chèo tam bản đưa thầy. Thầy nên dè chừng. Tên Trần Văn Có nói mười, thầy tin một là vừa. Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít Le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tàu...
Thầy phái viên tò mò:
- Vậy thì ông độc giả của chúng tôi rành chữ nho?
- Ai biết rõ được. Anh ta nói có dây có nhợ, tích người học trò nghèo tên là ngươì Thừa Cung gì đó... chăn heo; ông quan đại thần Lý Tích đích thân nấu cháo cho chị ăn dè đâu bị lửa táp cháy râu. Chưa hết đâu, thầy phái viên ơi! Hễ gặp ai say rượu anh ta nói một hơi như thầy chùa tụng kinh, có ca có kệ. Cái gì mà các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mặt đỏ gay, mắt lờ đờ...
Thầy phái viên cười lớn, nhịp mạnh tay xuống bàn ba bốn lần như đánh trống chầu hát bội, đôi mắt sáng ngời, chân nhảy nhót như con nít:
- Hay quá! Hay quá! Tôi thăm ông độc giả đó mới được. Ổng làm thầy giáo hả thầy? Nhờ thầy đưa tôi đi tới gặp mặt. Ngộ quá hen! Ừ! Ừ!
Bực mình quá chừng, thầy xã nghĩ: “Ông phái viên này kêu mình bằng thầy mà lại tưng bốc kêu Tư Có bằng ông. Hay là ổng chê mình không dám xuất tiền mua báo như Tư Có. Chừng bận về, mình mua vài năm báo chơi cho biết mắt”.
Thầy xã hối thúc cho chú trạo sửa soạn quai chèo đưa thầy phái viên đến ấp Cà Bây Ngọp. Thầy phái viên cám ơn một tiếng nhỏ rồi cúi đầu xuống nói rù rì như xa như gần, trong cuống họng:
- Ờ! Ðể coi các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mắt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm... Lũ trẻ theo sau reo cười chế nhạo... Ðúng vậy, Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp sơ đẳng, Việt Nam Tiểu học tùng thư... Sách náy do Nha Học Chính đã giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Ðặng Ðình Phúc và ông Ðỗ Thận soạn... Eo ơi! Cái buổi thơ ấy đó nay còn đau.
Ðường đi ấp Cà Bây Ngọp quá xa vời! Chiếc tam bản nhún xuống một cái “ồ” rồi nhảy tới một cái “sạt” theo nhịp chèo hai chèo. Nắng chang chang rắc vàng trên thảm cỏ hoang xanh ngắt. Vài nhánh bình bát gie ra, quất vào bụi sột soạt. Xế chiều, cò trắng phất cờ như đón người khách lạ. Trích, cúm núm kêu ré lên. Con rạch thâu hẹp lại. Chiếc tam bản lắc nghiêng như trái dừa khô trên mặt nước đầu sóng gió. Ánh trạo chèo một chèo, nghiêng mình bên hữu. Rồi bỗng nhiên anh chụp mỗi tay một cây chèo mà chèo trên đất khô bên bờ rạch. Chiếc tam bản lại lướt nhanh trong lòng nước quá hẹp, vừa đủ lọt bề ngang.
Anh Trạo mỉm cười:
- Chèo như vậy đi lẹ hơn. Mọi lần mùa hạn, nước cạn queo, dưới sông đầy bùn non, tôi cưỡi trâu trên bờ mà kéo. Chiếc tam bản đi như cộ kéo lúa...
- Chú Trạo biết rành nhà Từ Có không?
- Dạ, biết. Tư Có ở một mình, nuôi heo, giăng câu, ăn ong, nghe nói y ở xứ Vãng Long xuống đây tính bề dạy học mà xin phép chưa được...
o
Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu “ông cọp”. Anh trạo đã về, Tư Có kềm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đò. Thếp đèn dầu cá kéo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mànhlưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp.
Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời:
- Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá đó.
Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chun lẹ vào ngồi kế bên:
- Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hoài sanh bịnh chết.
Tư Có đáp:
- Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn... Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học.
Thầy phái viên trố mắt:
- Vậy à? Còn mấy làng khác?
- Ðông Thái, Ðông Hoà, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông... không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi...
- Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi... Báo có thích hợp không anh Tư?
- Nói chí tình, đó là của người bà con ở Sài Gòn “đăng” dùm tôi, ban đầu tưởng nói chơi dè đâu nhà báo gởi xuống thiệt, xem cũng đỡ buồn. Phần nhiều bài vở của mấy ông viết cao quá. Tôi thường đọc cái chương Văn Uyển, có bài thơ bát cú vủa cô Bích Lý vịnh cảnh sông Hương. Hay quá lẽ! về sau, ông Trần Bất Diệt ở Cầu Kè họa vận...
Thầy phái viên gật đầu, ừ lấy lệ, thật ra hồi nào tới giờ đi cổ động cho báo Chim Trời mà ít khi thầy đọc kỹ báo nhà. Tư Có hỏi tiếp:
- Nhà báo Chim Trời đông người không thầy? Chắc là lớn lắm? Làm sao mà thành chữ được.
- Có thợ chuyên môn ráp từ chữ a, chữ b.
- Trời thần ơi! Biết tới chừng nào mới xong, chắc là thợ đông lắm... Còn mấy ông chủ nhiệm, chủ bút, phóng viên... Chắc làm việc rần rộ ngày đêm.
Thầy phái viên sực nhớ đến tình trạng loe hoe của toà soạn, gật đầu lần nữa.
- Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, từ cứ. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không?
Thầy phái viên cười:
- Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt “ca rê”, tay xách tòn ten bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.
Tư Có nói:
- Chắc là thầy muốn nói bài “chốn quê hương đẹp hơn cả” chớ gì?
Rồi chú đọc một hơi:
- Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: ông đi du sơn du thủy...
- Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá... Người du lịch mới trả lời: ở chống quê hương... từ cái bụi tre ở xó vường cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan... Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đống áo dài.
- Thì hình nào cũng khăn đóng áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: ai bảo chăn trâu là khổ... Không, chăn trâu sướng lắm chứ.
Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng:
- Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như voi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượng trên đám cỏ...
Rồi thầy kéo qua những đoạn khác mà thầy nhớ:
- Hay quá! Nhà báo bây giờ không ai bằng. Văn chương như vậy là cảm động lòng người... Như cái hình ông già đẩy xe bò lên dốc, có hai đứa học trò kéo dây tiếp sức. Trời nắng to. Ðường thì dốc. Một ông lão đẩy cái xe lợn. Trên xe có ba bốn con lợn to, chân trói bụng phơi và mồm kêu eng éc...
Tư Có vỗ trán:
- Còn ông già khuân tảng đá nữa, thấy mà thương: Trời nhá nhem, chạng vạng tối, tôi thấy một ông cụ già hì hục khuân tảng đá. Ông cụ nhắc lên để xuống đến bốn năm lần mới đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà bỏ đấy... Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, sầy cả chân đau lắm nên khuân bỏ vào đây, sợ có người vấp nữa chăng.
Thầy phái viên lại không chịu rằng mình kém trí nhớ:
- Ngang hình ông già đó, trương phía tay trái có bài chọn bạn mà chơi, thói thường gần mực thì đen. Cha chỉ ngón tay, con đứng khoanh tay cúi đầu mà nghe. Dưới chót lại có hàng chữ: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.
Tư Có gật đầu:
- Ðó là ngụ ý răn he gương tốt thói xấu. Phải siêng năng như Sửu chăm học, ngồi bên đèn mà đọc sách; đừng lười biếng như thằng Bình đánh vòng. Phải bền chí học hành. Ờ thầy phái viên chắc nhớ cái hình con kiến tha mồi! Văn chương nghe như đờn Nam Xuân: Nước mềm, đá rắn thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy và dây cưa mãi cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy...
o
Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim. Tuổi của họ đã quá ba mươi! Nước chảy mãi mà sao đá không thấy mòn? Sợi dây cưa mãi, gỗ chưa đứt mà sợi dây sắp đứt trước. Sự nghiệp của họ nào đã có gì: Kẻ mến cái thú ở nhà quê, người lận đận với cái thú ở kẻ chợ.
Nằm mãi không ngủ được, thầy phái viên lắng nghe những tiếng động trong nhà, giữa tiếng mọt nghiến gỗ kèn kẹt như người đưa võng, bất chấp tiếng chuột chạy sột soạt và nhất là tiếng muỗi rừng lộng hành kêu vo vo, thầy mơ lại những ngày năm nay tôi lên bảy, tôi đã lớn, tôi không... lêu lổng nữa. Còn đâu mùi hương của những quyển sách mới bao bìa kỹ lưỡng nhưng vài ngày sau đã rách bìa! Làm sao nghe được tiếng phập phồng trong ngực của đứa bé khi trời mưa to, đi học trễ, run rẩy bước vào trường rồi cổi áo phơi ngay trong lớp... Ðây, thầy giáo mặc đồ bà ba, lâu lâu bước ra khỏi lớp để chào hỏi khi thầy xã, thầy cai tổng đi ngang qua. Một đôi lúc, thầy giáo quá cay nghiệt đã dùng thước đánh vào những đầu ngón tay non yếu, hoặc hươi cây thước bảng...
Dầu sao đi nữa, những kỷ niệm xa xưa vẫn vui, vui như một lũ học trò giành nhau chụp cho được cây dùi trống, đánh thùng thùng báo hiệu giờ vào lớp.
Giọng Tư Có nói nhỏ:
- Ngủ chưa, thầy phái viên?
Thầy phái viên yên lặng, trời mới mưa, các chỗ trũng đầy nước cả nên cóc và nhái kêu ính ỏi. Vài giọt mưa rớt nhẹ xuống đất... Và rơi trên rạch Cà Bây Ngọp trước nhà. Hồi năm nào, thầy là giọt nước trong lành đó, bây giờ nó đã trôi xa, ra sông, chứa đựng rác rến, chảy hăng ra biển. Ừ, hoạ chăng đó là con đường hiệu quả nhất là được sớm bốc thành hơi, đầu thai trở lại nguồn... Nghĩ vậy, thầy khoan khái mỉm cười ngồi dậy hỏi:
- Ngủ chưa anh Tư?
- Chưa!
- Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt.
Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài:
- Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi... Chắc thầy tới đây thâu tiền.
- Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau...
- Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong... nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi “đăng” là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ.
- Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tính không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài hoài cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động:
- Thôi thầy ngủ lấy sức để mai về bình yên. Khuya nghe chồn cáo cộc kêu, thầy đừng giựt mình: Ở đây miệt rừng, không có... xa xa thì nghe tiếng chó sũa trăng.
Thầy phái viên cười dòn, tưởng tượng cái cảnh biệt ly ngày mai “Ôi! Cái cảnh biệt ly ở xóm Cà Bây Ngọp sao mà buồn vậy!”. Vĩnh biệt thì đúng hơn. Nghe nó buồn như một giọng hò, một câu rao Vọng Cổ, nhưng thầy chưa muốn nói ra, giờ này.
Mời đọc thêm những truyện khác của Sơn Nam
2/9/08
Cây Huê Xà
Mời đọc thêm những truyện khác của Sơn Nam
26/7/08
Kiếm hiệp TQ
Truyện dài:
Kim Dung - Thư kiếm ân cừu lục (1955)
Kim Dung - Bích huyết kiếm (1956)
Kim Dung - Xạ điêu anh hùng truyện (1957)- (Anh hùng xạ điêu)
Kim Dung - Tuyết sơn phi hồ (1959)
Kim Dung - Thần điêu đại hiệp hay Thần điêu hiệp lữ (1959)
Kim Dung - Phi hồ ngoại truyện (1960)
Kim Dung - Bạch mã khiếu tây phong (1961)
Kim Dung - Uyên ương đao (1961)
Kim Dung - Ỷ Thiên Đồ Long ký (1961)
Kim Dung - Liên thành quyết (1963)
Kim Dung - Thiên long bát bộ (1963)
Kim Dung - Hiệp khách hành (1965)
Kim Dung - Tiếu ngạo giang hồ (1967)
Kim Dung - Lộc Đỉnh ký (bản cũ & bản mới) (1969-1972)
Truyện ngắn:
Kim Dung - Việt nữ kiếm (1970)
20/7/08
20/5/08
Thiên Nam Đại Hiệp 02
Tổng Bảo Tiêu Bắc Giang ở về phía Bắc kinh đô Thăng Long hơn một trăm dặm, đã hơn mười năm sử dụng võ thuật vào mục đích làm ăn đã gây được uy tín lớn trong giới võ lâm giang hồ. Những chuyến tải hàng cho khách của Bảo Tiêu này chưa hề có sự mất mát nào. Đó chẳng qua là họ đã tập trung được hơn hai mươi cao thủ giang hồ cùng một chí hướng gây dựng nên Tổng Bảo Tiêu Bắc Giang. Rất uy tính về việc làm đầy trách nhiệm, Tổng Tiêu Đầu Hàn Bá Trung đã có dưới tay mười Tiêu Đầu võ công vào hạng bậc nhất võ lâm hiện nay, mà Tiêu Đầu Lưu Chấn Liêm là trong mười Tiêu Đầu của Bắc Gian, song đã bị sát tử cùng năm người khác khi đụng đầu bọn "Nhị thập nhất Hỏa Ma".
Ba ngày sau khi Tiêu Đầu Lưu Chấn Liêm tải hàng ra đi, thì tin sát tử hàng hóa đều mất được cấp báo về cho Tổng Tiêu Đầu Hàn Bá Trung.
Được tin này Hàn Bá Trung lo lắng ra mặt. Lão ta cho họp toàn thể Tiêu Đầu và các phụ tá của các Tiêu Đầu.
Trước các đồng sự hiện diện nơi sảnh đường của Tổng Bảo Tiêu, Hàn Bá Trung dõng dạc phân tích:
- Hơn mười năm qua, việc đoàn Tiêu Đầu Lưu Chấn Liêm bị sát tử là một thất bại đầu tiên của chúng ta và cũng đánh dấu cho sự xuất hiện một Đại ma đầu, từ thiên triều Trung Quốc xâm nhập. Chúng ta không ngờ "Nhị thập nhất Hỏa Ma" ở vùng biên giới lại vào đây hoạt động.
Lão trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp:
- Thật ra không ngờ thùng hàng của một khách quan lại có tầm quan trọng liên lụy đến chúng ta như vậy.
Lão gật gù dáng suy tư rồi chậm rãi, giọng cương quyết hơn:
- Trong việc này, ta thấy sẽ còn những luyên lụy đến với chúng ta nhưng chưa biết sẽ từ đâu.
Một người đứng dậy nói:
- Tiêu Đầu Du Nhược Hải xin hỏi Tổng Tiêu Đầu một câu?
Hàn Bá Trung ôn tồn
- Du Tiêu Đầu cứ nói.
Tiêu Đầu Du Nhược Hải người cao lêu nghêu cất giọng nói sang sảng:
- Theo tin chúng tôi được biết thì việc này có dính dáng đến Nhị Lã Ma Hắc Bạch diện nhân không?
Tổng Tiêu Đầu Hàn Bá Trung đáp ngay:
- Trong giang hồ còn đồn đãi, chính Nhị Lão Ma Hắc Bạch diện nhân đã lấy được "Võ lâm tuyệt chiêu bí kíp" trong cái rương hàng mà Tiêu Đầu Lưu Chấn Liêm chuyển tải, nếu quả thế thì tất nhiên có hai lão ma này liên hệ vào rồi.
Tiêu Đầu Du Nhược Hải tiếp lời:
- Nếu vậy khách quan gởi hàng hạch hỏi ta qui vào Nhị Lão Ma Hắc Bạch diện nhân có được không Tổng Tiêu Đầu?
Hàn Bá Trung đáp:
- Sự việc là vậy, nhưng e rằng có sự rắc rối vì "Võ lâm tuyệt chiêu bí kíp" là đệ nhất bí kíp võ lâm.
Du Nhược Hải chặn lời:
- Nhưng sao vị khách quan không cất giữ mà lại gởi chuyển hàng đi quan ngoại như thế?
Giữa lúc đó thì một bóng người bịt mặt lao vút vào từ phía cửa sổ của một khách sảnh cùng với tiếng nói:
- Các ngươi đừng hỏi tại sao. Hỡi Tổng Tiêu Đầu Hàn Bá Trung, các ngươi làm mất Bảo vật thì từ nay Tổng Bảo Tiêu Bắc Giang sẽ bị xóa tên trong Bảo Tiêu.
Hàn Bá Trung bình tĩnh ra hiệu, lập tức chín vị tiêu đầu và hơn vài chục người phụ việc đều vây người bịt mặt.
Hàn Bá Trung quát:
- Các hạ là ai?
Người bịt mặt cất tiếng cười ngạo mạn:
- Ngươi không cần biết ta là ai, mà chỉ biết hôm nay ta đến đây xóa bỏ cái tên Tổng Bảo Tiêu Bắc Giang mà thôi.
Nói dứt lời, bóng đen liền quay một vòng tròn, vung hai tay thì có hai cái vòng như hai lưỡi hái vút ra tấn công theo hình tròn đối đầu với các cao thủ Bảo Tiêu vây quanh bóng đen.
Lúc đó bên ngoài lại một loạt người bịt mặt xuất hiện với đủ loại binh khí trong tay đồng nhất tấn công vào các cao thủ của Bảo Tiêu.
Thế là khách sảnh biến thành võ sảnh.
Cuộc ác đấu trong Bảo Tiêu Bắc Giang càng ác liệt mà chủ động là bọn người bịt mặt.
Lúc này thì không còn một lời đối đáp nào cả. Hai bên chỉ còn biết xáp chiến. Những chiêu thức của đôi bên đều là những đòn sát tử.
Đang đánh nhau ngang ngửa thì tên bịt mặt đầu tiên hét lên
- Lui!
Đồng loạt cả bọn bịt mặt như đã chuẩn bị trước đều tấn công đối thủ bằng một chiêu thức bức thúc, buộc đối thủ phải lùi lại thì họ nhanh như ánh chớp phóng người rút lui.
Người của Tổng Bảo Tiêu phản ứng tức thời đuổi theo. Nhưng cũng chính trong cái khoảnh khắc ấy, khoảnh khắc mà hơn mười mấy người của Tổng Bảo Tiêu nhấc người phóng theo thì hàng loạt tên bắn vào người họ.
Nhiều tiếng hét lên và nhiều thân người ngã xuống, thân người uốn, lăn, nẩy, giẩy mấy cái rồi tắt lim.
Tuy nhiên còn lại hai người không bị xạ tiễn là Tổng Tiêu Đầu Hàn Bá Trung và Du Nhược Hải là hai người có võ công cao hơn những người kia.
Họ liền đâu lưng lại để chuẩn bị đối ứng.
Hàn Bá Trung hét lên:
- Bọn hèn nhát. Dùng tên độc tấn công không hại được ta đâu!
Cùng với lời nói, Hàn Bá Trung và Du Nhược Hải như hai ánh chớp lao vào đâm người bịt mặt với hai thanh kiếm như tỏa muôn ánh chớp, tấn công bằng những chiêu thức thượng thừa làm cho hơn sáu bảy tên bịt mặt ngã gục nơi khách sảnh.
Hàn Bá Trung thấy bên mình chỉ có Du Nhược Hải mà phía địch còn khoảng hai mươi tên, mà võ công cao thì chừng hơn mười tên, còn mười tên còn lại thì dùng xạ tiễn rất nhuần nhuyễn, nên nếu cứ kéo dài mãi, sẽ nguy hại cho bản thân và Du Nhược Hải.
Hàn Bá Trung ra lệnh cho Du Nhược Hải, rồi cùng lúc tập kích vào những đối thủ trước mặt và cả hai cùng lúc phóng người vọt qua cửa sổ phóng ra ngoài. Nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ, vì bên ngoài có hàng loạt tên lại nhắm hai người bắn như mưa bấc
- Huỵch ... huỵch ...
Hai thân người vừa rơi xuống thì mười thanh kiếm cùng lúc chém bồi thêm.
Nhưng hơn mười tên bịt mặt đang ở vòng ngoài cửa sổ đang cùng ngắm Hàn Bá Trung và Du Nhược Hải, thì cùng lúc hét lên:
- Ối ... Ối ...
Cả mười tên bịt mặt lại cùng ngã lăn xuống đất, giẫy lên mấy cái rồi bất động.
Nếu nhìn kỹ thì nơi cổ chúng đều đã ghim một cây kim thật nhỏ mà chuôi kim ấy lại có gắng một cái hoa cũng rất nhỏ màu đỏ máu.
Thì ra bọn bịt mặt chết vì những ám khí này ghim vào các tử huyệt.
Vừa lúc đó xuất hiện một cặp nam nữ trạc trung tuần. Người nữ mặc võ phục màu hồng phấn gọn gàng và có khuôn mặt đẹp nhưng đôi mắt rất sắc bén. Người nam vạm vỡ mặc võ phục màu xanh nước biển, đôi mày rậm, cằm bạnh mặt lạnh như tiền.
Họ vào khách sảnh, nơi bọn bịt mặt đang còn ở đó, có cả thảy gần hai mươi tên.
Tên bịt mặt chủ sự quát lên:
- Các hạ là ai?
Nữ nhân mặc võ phục màu hồng phấn chỉ nhếch môi và bàn tay bà ta phất nhẹ về phía ba tên đứng một nhóm gần nhất, cùng lúc ấy nam nhân đứng cạnh nữ nhân, trong tay vung một dải lụa màu đỏ máu được gắn trên một cán bằng vàng óng ánh. Tức thì một tên bịt mặt phía hữu của nam nhân đầu lìa khỏi cổ. Cái thây không đầu vừa đổ xuống cùng lúc với ba cái thây mà nữ nhân vừa vẫy tay về phía họ và nơi ba cái cổ của ba xác người bịt mặt vừa ngã xuống đều ghim cây kim có cái hoa đỏ đính theo.
Tên bịt mặt chủ sự hét lên kinh hoàng:
- Đa sát Xuyên Hoa Đoạn Hồn Kỳ!
Hắn quay nhìn đồng bọn hét lên:
- Chạy!
Hắn vừa nói vừa phóng người cùng với đồng bọn, nhưng ánh chớp bủa vây tứ phía. Cặp vợ chồng Đa sát Xuyên Hoa Đoạn Hồn Kỳ đều cùng lúc ra chiêu sát thủ bằng hàng loạt tiêu hoa tiễn, ám khí lợi hại bậc nhất võ lâm của nàng Xuyên Hoa và cây cờ đoạn hồn của chồng nàng là Lãnh nhân thì những tên bịt mặt không có cơ hội để trốn thoát.
Tất cả đều chết. Tổng Bảo Tiêu Bắc Giang đã có số trong võ lâm nhưng những tên bịt mặt này là ai?
Lãnh nhân Đoạn Hồn Kỳ hỏi vợ:
- Xuyên Hoa, bọn chúng là ai?
Xuyên Hoa bước về phía tên bịt mặt chủ sự cuối xuống định kéo miếng vải che mặt thì có tiến cười từ hai phía cửa sổ và tiếng nói:
- Đa sát Xuyên Hoa Đoạn Hồn Kỳ cũng gây nên chuyện này sao?
Xuyên Hoa dừng tay không kéo khăn che mặt của cái xác đang nằm chết mà cùng chồng lách mình vọt qua phía cửa sổ phía trước và nói lớn:
- Xin mời cao nhân ra đây!
Tiếp theo là hai bóng người lao vụt đến trước mặt cặp vợ chông Đa Sát.
Xuyên Hoa nhếch mép cười nhẹ nói:
- Tưởng ai, hóa ra là Hắc Bạch diện nhân. Hai Lão Ma đến đây có việc gì?
Hắc diện nhân cười khẩy:
- Chắc chúng ta cũng cùng mục đích như vợ chồng đa sát thôi.
Lãnh nhân Đoạn Hồn Kỳ xem vào:
- Hứ! Đâu có cùng mục đích được.
Bạch diện nhân trả lời:
- Sao lại không? Chúng ta biết chắc vợ chồng ngươi vì chuyện "Bí kíp tuyệt chiêu võ lâm" chứ gì?
Lãnh nhân Đoạn Hồn Kỳ chặn lời:
- Ta đã bảo không là không, vì ta chưa có ý định đó, mà ta muốn tìm hai lão.
Hắc diện nhân quát mắt:
- Tìm chúng ta để làm gì?
Đa sát Xuyên Hoa lảnh lót:
- Tìm hai lão để hỏi xem tại sao hai lão rời Tây Vực vào nơi đây.
Bạch diện nhân cười nhẹ:
- Đáng lẽ vợ chồng ngươi phải nói tại sao bỏ vùng Giang Nam để trôi dạt vào cái xứ nhỏ bé đầy nguy hiểm này.
Xuyên Hoa đáp liền:
- Ta nghĩ vào nơi này để gặp gỡ các cao thủ võ lâm và làm quen với các môn phái ở đất Nam này.
Lãnh nhân Đoạn Hồn Kỳ gạt nói:
- Hai lão đã lấy được "Võ lâm tuyệt chiêu bí kíp" rồi phải không?
Hắc diện nhân lắc đầu:
- Nó bị tiêu hủy rồi!
Lãnh nhân lắc đầu giọng chất vấn:
- Không thể tin được.
Hắc diện nhân cương quyết:
- Ta sợ gì mà nói sai.
Lãnh nhân hỏi thêm:
- Có gì làm bằng chứng?
Hắc diện nhân lấy trong túi ra tờ bìa nhàu nát của quyển "Võ lâm tuyệt chiêu bí kiếp" đưa ra rồi nói:
- Nó chỉ có thế thôi.
Vừa nói Hắc diện nhân vừa lia tờ giấy thật mạnh về phía Lãnh nhân, nhưng bỗng có luồn gió lốc cuốn phăng đi, Lãnh nhân liền phóng người theo chộp lấy lại tức thì.
Hắc diện nhân thấy vậy cất tiếng khen:
- Hảo công phu! Hảo công phu!
Xuyên Hoa liếc nhìn tờ bìa rồi lấy lên xem và liếc về phía Bạch diện nhân nói với:
- Trả!
Tờ giấy bìa đã bị vo tròn như viên đạn, theo lực ném bay vút tới, nhắm vào giữa mặt của Bạch diện nhân.
Lão Ma này phải lắc mình tránh và đồng thời rút đoản kiếm lẹ như cắt chém liền mấy phát vào viên giấy
- Rẹt...Rẹt...
Viên giấy bị nát ra làm bốn năm mảnh.
Lãnh nhân Đoạn Hồn Kỳ thấy vậy, liền dùng cây cờ đoạn hồn của hắn phất cuốn tất cả những mảnh giấy bị chém nát kia, rồi liền hất tất cả vào mặt Hắc diện nhân.
Hắc diện nhân nghe có sức gió cuốn cây cờ, cuốn những viên giấy đến người lão, nên lão cũng không chậm trễ cũng thi triển đoản kiếm vun vút ra chiêu liên hoàn chém nát những viên giấy tan như xác pháo.
Lãnh nhân Đoạn Hồn Kỳ hét lên:
- Giỏi lắm!
Vừa hét, thân hình hắn bắn về phía Hắc diện nhân và hai người cùng xuất chiêu rồi cả hai người cùng bắn vội về phía sau.
Lãnh nhân Đoạn Hồn Kỳ nhẹ nhàng tọa trụ, còn Hắc diện nhân lảo đảo mấy cái mới đứng yên được.
Đa sát Xuyên Hoa tiến sát bên chồng nói:
- Từ nay không còn một dấu tích nào của "Bí kíp võ lâm tuyệt chiêu" nữa.
Lãnh nhân Đoạn Hồn Kỳ đáp:
- Nhưng hai lão Ma và vợ chồng ta biết là được rồi.
Nói xong nắm tay Xuyên Hoa, Lãnh nhân nói như để hai Lão Ma nghe:
- Chúng ta đi đi.
Hai vợ chông Đa sát Xuyên Hoa Đoạn Hồn Kỳ như hai cái bóng lao vút đi.
Hai lão Ma cũng không nói lời nào, quay lưng bước nhanh vào khu rừng phía trươc.
3/5/08
Thiên Nam Đại Hiệp 01
Trong thị trấn, đường vẫn vắng bóng người, sinh hoạt ban ngày như dừng lại, còn ban đêm thì nhà nhà đều cửa chốt then gài cẩn thận. Nơi thôn dã bao trùm một cảnh đìu hiu. Mưa cứ như trút nước, mặc sức tuôn tràn xuống thung lũng dưới chân núi. Con đường nhỏ từ thị trấn Hà Bằng chạy quanh theo ngọn núi Bỉnh Lăng. Dầu lúc này mưa vẫn nặng, nước từ trên triền núi tuôn tràn trên mặt lộ, nhưng vẫn có một đoàn người đang gấp rút di chuyển.
Họ gồm có tám người cưỡi ngựa, mặc võ phục bị ướt đẫm, đang phi nước đại chạy hai bên của hai cỗ xe song mã. Phía sau lại thêm bốn con ngựa tải hàng. Đoàn người ngựa gấp rút lao về phía trước. Bỗng trên triền núi có một loạt đá tảng ào ạt đỗ xuống làm cho đoàn ngựa hốt hoảng cất vó hí lộng inh ỏi.
Họ vội ghìm cương dừng lại, thì từ trong bìa rừng có hơn hai mươi người đều mặc võ phục màu đỏ, cùng lúc băng người ra, tay đã cầm gươm tuốt khỏi vỏ chận ngang đường.
Một tên trong bọn hét lớn:
- Hãy dừng lại!
Đoàn người ngựa nhìn nhau hội ý và một người đáp:
- Bọn Hỏa Ma kia, các ngươi muốn gì ở nơi chúng ta?
Tên Hỏa Ma có da mặt gần như màu đỏ của trang phục cất tiếng cười lớn rồi đáp:
- Các người tải hàng gì mà nhiều thế? Hãy nộp cho ta, tính mạng sẽ được bảo toàn!
Người ngồi trên ngựa hú một tiếng rồi trả lời:
- Chắc các hạ cũng biết chúng tôi là Đại Lý Bảo Tiêu Bắc Giang chuyên chuyển hàng cho khách.
Vừa lúc đó, một người trong bọn áo đỏ bước tới xen vào:
- Đại ca ta hỏi là Tiêu Đầu Lưu Chấn Liêm tải hàng gì mà đi vội vã lại đi trong mưa gió sấm chớp thế này?
Lưu Chấn Liêm vẫn ghìm cương ngựa đáp lớn:
- Đó là việc của chúng tôi và khách, có liên quan gì đến quý các hạ đâu mà các hạ hạch hỏi?
Tên đại ca của Hỏa Ma hét lên:
- Các người phải biết danh Hỏa Ma nhị thập nhất chúng ta, đừng có loanh quanh nữa, tốt nhất ... Ha ha ha ...
Tên đại ca Hỏa Ma chỉ hai mươi mốt tên Hỏa Ma đang chận ngang đường nói:
- Các ngươi hãy lượng sức xem có địch nổi hai mươi mốt anh em chúng ta không?
Lưu Chấn Liêm quát lại:
- Chúng ta có tám người và hai mã phu nhưng chưa chắc các ngươi đã làm gì được hai chúng ta đâu hỡi tên Hỏa nhất Ma kia.
Hỏa nhất Ma đưa tay vuốt nước mưa trên mặt vừa hét lên:
- Được lắm! Lưu Tiêu Đầu hãy xem đây!
Hắn vừa nói vừa băng mình xuống chiêu như ánh lửa của màu đỏ y phục lao vút vào Lưu Chấn Liêm.
Con ngựa của Lưu Chấn Liêm hai vó trước cất cao hí lộng rồi ngã nhào luôn xuống đất bất động, trong khi đó Lưu Chấn Liêm cũng rút kiếm bay khỏi lưng ngựa tấn công ngay vào Hỏa nhất Ma.
Cùng lúc Hỏa nhất Ma và Lưu Chấn Liêm giao chiến thì hai mươi Hỏa Ma kia, cũng ào ạt tấn công đoàn người của Lưu Chấn Liêm.
Một cuộc ác đấu giữa một bên y phục toàn đỏ và một bên y phục toàn đen. Vì số người y phục đỏ đông hơn gấp đôi, nên chiến trường chỉ thấy bọn y phục đỏ vây phủ đám y phục đen.
Bọn Hỏa Ma tuy đông gấp đôi nhưng không dễ gì áp đảo người của Bảo Tiêu Bắc Giang đã có danh phận trong giang hồ. Tuy họ có tám người nhưng võ công cũng ít người sánh kịp, nên Bảo Tiêu Bắc Giang rất được nhiều khách thuê tải hàng.
Qua một lúc ác đấu, giờ đây đôi bên mới để lộ những sơ hở và việc truy sát đã đến.
Ba tên Hỏa Ma dồn dập tấn công một người của Bảo Tiêu. Cùng lúc nguy cơ này thì những con ngựa của Bảo Tiêu hí lên inh ỏi rồi ngã chết bởi những đường gươm truy diệt của bọn Hỏa Ma
Hỏa Ma đông người và đôi bên đều ác đấu trên đất nên bọn Hỏa Ma có dư người tàn sát không còn một con ngựa nào còn vướng vào hai chiếc xe ...
Rồi một tiếng thét thật lớn, cả ba Hỏa Ma cùng lúc tấn công ba mặt vào Bảo Tiêu.
Rồi lần lượt, sau những tiếng hét, tiếng va chạm binh khí và những ánh xẹt của lưỡi kiếm cùng ánh chớp của sấm sét làm cho đấu trường thêm đẫm máu.
Phía Bảo Tiêu còn lại Lưu Chấn Liêm hình như đã bị thương nơi vai cùng với một người nữa vừa đánh vừa tiến dần và có ý bảo vệ chiếc xe ngựa phía sau.
Lưu Chấn Liêm hét lên"
- Hoàng Bửu tứ đệ hải cho xe chạy!
Hoàng Bửu vội phóng người lên chiếc xe ngựa đầu tiên, giựt cương cho xe chạy, nhưng ngay lúc đó, khi hai con ngựa mới chạy độ năm bảy thước tấp vào lề đường thì hai tên Hỏa Ma lao theo chém lẹ vào chân của hai con ngựa kéo xe.
Tiếng hí đau đớn và chiếc xe lật nhào cùng hai con ngựa máu trào vẫn lồng lộn lê chiếc xe chạy một đoạn thì Hoàng Bửu đã lẹ làng phóng mình rời khỏi xe và với động tác thật nhanh chóng nhảy vội lên chiếc xe thứ hai giật cương cho xe chạy.
Nhưng xe chưa lăn bánh được mấy vòng thì hàng loạt phi tiêu ghim đầy người của Hoàng Bửu và thân hình của Hoàng Bửu bắn vọt ra khỏi xe, ngã lăn trên bãi mưa và máu.
Còn lại hiện trường chỉ có Lưu Chấn Liêm trong vòng vây của bốn tên Hỏa Ma, đã thấy nguy kịch, thì lại thêm hai tên Hỏa Ma vừa sát hại Hoàng Bửu, quay lại hợp công cùng đồng bọn.
Lưu Chấn Liêm thấy không còn cách nào hơn là tìm một con đường máu để thoát nên tung hết sở trường và sử dụng chiêu "Phụng Hoàng Xuất Động" của phái "Tây Sơn" bằng mười thành công lực của mình tấn công vào một Hỏa Ma. Thật không hổ danh Tiêu Đầu Lưu Chấn Liêm, với chiêu thế tuyệt kỹ.
Nhưng khi lưỡi kiếm chưa kịp rút về thì năm lưỡi kiếm của Hỏa Ma còn lại đã đâm trúng hai bên và sau lưng của Lưu Chấn Liêm.
Lúc năm kiếm của năm Hỏa Ma rút ra thì thân xác Lưu Chấn Liêm cùng Hỏa Ma bị Lưu Chấn Liêm đâm đều ngã sóng soài.
Hỏa nhất Ma còn đảo đôi mắt sắc một vòng bãi chiến trường rồi nhìn bốn Hỏa Ma còn lại, rít lên:
- Đổi lấy chiến thắng quá đắt!
Một tên Hỏa Ma tiếp lời:
- Ta chỉ còn năm người.
Hỏa nhất Ma nói như ra lệnh:
- Thôi được, xem trong hai chiếc xe ngựa này còn gì!
Một Hỏa Ma đáp lời:
- Chiếc xe ngựa phía trước không có chở hàng gì cả.
Hỏa nhất Ma hỏi lại:
- Xe trống à?
Một trong hai Hỏa Ma lúc nãy tấn công chiếc xe ngựa phía trước đáp:
- Hai tiểu đệ đã xem kỹ.
Hỏa nhất Ma chỉ vào chiếc xe ngựa phía sau mà hai con ngựa cũng đã chết tại chỗ làm chiếc xe hơi chúi về phía trước, nói với đồng bọn:
- Hãy lục soát chiếc xe này!
Một Hỏa Ma bước nhanh lại phía xe nhìn vào rồi quay ra nói:
- Chỉ có một cái rương lớn.
Hỏa nhất Ma ra lệnh:
- Hãy đưa xuống xe!
Một Hỏa Ma khác nhảy ngay lại và lên xe cùng với Hỏa Ma kia khiêng chiếc rương xuống để nơi mô đất cao.
Lúc này cơn mưa có phần giảm. Mây hơi mỏng trên bầu trời xám, nên ánh sánh có tăng thêm hơn lúc nơi đây chưa có cuộc ác đấu.
Hai Hỏa Ma vừa đặt cái rương nơi mô đất thì chung quanh đã có mặt đủ năm Hỏa Ma, mà mỗi người đều biểu lộ nét mặt như muốn biết những gì ở bên trong cái rương.
Hỏa nhất Ma nhìn cái khóa lớn còn toòng teng khóa chặt cái rương nên hắn nói:
- Để ta mở cho.
Vừa nói, lưỡi kiếm của hắn soẹt một cái, chiếc khóa rơi ngay xuống đất.
Hắn vừa nhích môi mỉm cười đắc ý như sắp đạt tới đích một công trình, vừa tra kiếm vào vỏ.
Hắn nhìn bốn tên Hỏa Ma kia, rồi cuối xuống mở cái nắp rương.
Khi nắp rương bật ra, tất cả bọn chúng đều cùng loạt "Ồ" lên một tiếng rồi im bặt.
Hỏa nhất Ma lên tiếng trước:
- Ở giữa còn một cái hộp đỏ, mà chung quanh là vàng nén cả. Thật là món hàng kỳ lạ.
Một Hỏa Ma lên tiếng:
- Đại ca hãy mở hộp nhỏ xem có gì?
Hỏa nhất Ma liếc tên vừa nói rồi đáp cộc lốc:
- Ừ!
Hỏa nhất Ma thong thả đưa tay vào nắp hộp đỏ thì bốn tên Hỏa Ma đều cuối xuống đưa mắt chăm chú theo từng cử động của bàn tay Hỏa Nhất Ma không chớp mắt.
Một tên Hỏa Ma nôn nóng nói:
- Mở ra đi đại ca!
Vừa lúc đó Hỏa nhất Ma cũng mở nắp cái hộp đỏ và một lần nữa cả năm tên Hỏa Ma đều la lên, khi họ nhìn thấy trong chiếc hộp chỉ đựng một quyển sách ghi tựa đề màu đỏ trên bìa sách màu vàng sẫm cũ.
Tiếng la của họ hình như cùng một nhịp:
- "Võ lâm tuyệt chiêu bí kíp".
Tiếng của họ vừa ra khỏi miệng thì Hỏa nhất Ma chụp ngay quyển sách lấy lên.
Nhưng cùng trong lúc Hỏa nhất Ma cầm quyển sách "Võ lâm tuyệt chiêu bí kíp" giở lên, thì một tiếng nổ kinh hoàng và tiếp theo nhiều tiếng nổ khác hất tung năm tên Hỏa Ma văng ra bốn năm thước nằm bất động.
Mưa lại nặng hạt trở lại. Trời lại kéo mây đen nhiều hơn. Nước mưa như muốn rửa đi những vũng máu của những xác thân con người và ngựa, nhưng máu đã thấm vào đất, đã nhuôm sẫm màu đất và bắt đầu xông mùi hôi tanh xác người, xác vật.
Lúc đó lại có hai người cưỡi ngựa thả nước nhỏ đi đến.
Họ cùng lúc dừng lại, rồi xuống ngựa, không ai nói với ai, họ lần lượt đến bên từng xác chế kiểm tra, xem có ai sống sót hay không.
Khi đến xác Hỏa nhất Ma, người ấy gọi:
- Bạch diện nhân đến đây.
Người được gọi, có thân hình nhỏ nhắn và khuôn mặt trắng bạch như quét vôi đáp lại:
- Có người sống hay sao Hắc diện nhân?
Hắc diện nhân vừa đỡ cao cái đầu của Hỏa nhất Ma vừa nói khi Bạch diện nhân đã đứng bên cạnh:\
- Lão Hỏa nhất Ma sao lại thảm tử nơi đây?
Bạch diện nhân cuối xuống thì thấy mắt của Hỏa nhất Ma đã lờ đờ, hắn nói:
- Xem lão Ma này còn sống được không?
Hắc diện nhân lắc đầu:
- Sắp tuyệt rồi!
- Cố hỏi lão xem ai sát hại!
Hắc diện nhân nói:
- Xem nơi tử chiến này, biết chắc là "Nhị thập nhất Hỏa Ma" đụng với bọn Bảo Tiêu Bắc Giang Lưu Chấn Liêm, đang nằm chết la liệt kia rồi, còn hỏi gì nữa?
Bạch diện nhân cãi:
- Đã biết vậy, nhưng phải hỏi xem nguyên do cuộc tử chiến này chứ?
Hắc diện nhân nói:
- Lão Ma sắp đi vĩnh viễn rồi, nói làm sao được mà hỏi.
Vừa lúc đó Hỏa nhất Ma cố mở bàn tay thì Bạch diện nhân nhanh nhảu kéo những ngón tay của lão Ma thì thấy một nắm giấy trong tay lão.
Bạch diện nhân vội vả nhưng nhẹ nhàng gạt tờ giấy để xem nội dung, thì ra đó là tờ bìa đã nhàu rách và mất một phần của cuốn sách mà lão Hỏa Ma lúc mở rương chộp chặt trong tay.
Hắc diện nhân hỏi:
- Giấy gì?
Bạch diện nhân đáp:
- "Võ lâm tuyệt chiêu bí kíp".
Hắc diện nhân buông đầu lão Ma xuống, khi đó lão cũng đã tắt thở, rồi đứng dậy nhìn chung quanh như tìm kiếm.
Bạch diện nhân nhìn vào cái rương rồi nói với Hắc diện nhân:
- Chất nổ đã phá nhát bộ bí kíp đệ nhất võ lâm rồi. Thật là uổng công.
Hắc diện nhân nói theo:
- Chúng ta được tin bộ bí kíp đã ở nơi đây thế mà vẫn không kịp.
Bạch diện nhân suy nghĩ một chút rồi nói với Hắc diện nhân:
- Chúng ta quay lại Bắc Giang Bảo Tiêu sẽ biết hàng này của ai.
Hắc diện nhân đáp:
- Nhưng dẫu của ai cũng không còn nữa.
Bạch diện nhân cương quyết:
- Nhưng chúng ta muốn biết hàng của ai!
Hắc diện nhân gật gù:
- Được. Ta đi.
Hắc, Bạch diện nhân nhảy vọt lên ngựa, quay ngựa đi về phía họ vừa đến lúc nãy ...
Hoa trinh nữ
Lần đầu tiên thấy trinh nữ nở hoa. Dù rằng không lạ lẫm gì với loại cây này từ lúc còn nhỏ xíu. Lúc nhỏ, mỗi khi có đứa nào phát hiện được 1 bụi cây "mắc cỡ", cả bọn xúm lại dùng tay chạm nhẹ vào từng lá, vừa "bình loạn" đủ thứ, nào là tại sao lá lại khép lại khi chạm tay vào, thậm chí có lúc chỉ cần 1 cơn gió thoảng qua cũng làm hàng loạt lá thẹn thùng khép lại, rồi tên gọi mắc cỡ từ đâu mà có ...
Vậu mà sau 5 năm sống trên thành phố lại được thấy "mắc cỡ" nở hoa. Thật lạ. Mà cũng không phải là những bông hoa được trồng, nó chỉ tự mọc lên trong chậu cây trầu bà. Đây là một loài háu nước, trầu bà cũng là loài háu nước, nên nhiều lần mình đã cắt tỉa bớt những cành trinh nữ để dành lượng nước tưới cho trầu bà. Qua đợt mưa vừa rồi, mình không lo việc tưới nước, nên cũng cắt tỉa nữa. Sau 2 tuần, chợt thấy những cành trinh nữ nở hoa, cảm giác thật lạ ...
Ban đầu, sau khi ngắm kỹ các bông hoa, cảm giác đầu tiên là mình bổng cảm thấy những bông hoa này sao mà giống bông hoa "bồ công anh" trong tập truyện Đôrêmon "Bông hoa biết nói" mà mình đã đọc từ lâu lắm (thực ra ở giai đoạn đó phải gọi là quả thì mới chính xác). Rồi trong 1 phút giây ngắn ngủi, ký ức xa xưa chợt hiện về, nghe thoảng bên tai lời bài hát mà lúc nhỏ vẫn thường nghe cha hát: tôi không phải là vua nên mộng ước thật bình thường , tôi yêu một loài hoa trên vùng đá sỏi buồn phiền
, loài hoa không hương không sắc màu ...nhưng loài hoa biết xếp lá ngây lá ngây thơ ...
25/3/08
Thơ Tình Trên Lá
Phạm Thị Ngọc Liên
Lá me đứng như dấu sắc
Nằm im như một dấu huyền
Lại cũng giống như dấu nặng
Trên mặt đường làm duyên.
Lá me rơi đầy trên tóc
Buông dài như dấu chấm than
Có người đi qua muốn nhặt
Lá cong như dấu hỏi vàng.
Lá đi theo em xuống phố
Bỏ thời mực tím sau lưng
Vẩn vơ lá như dấu ngã
Trước những bước chân ngập ngừng.
Lá như một thời tuổi trẻ
Một thời hồn nhiên vô tư
Em đi qua còn ngoảnh lại
Những con mắt khép sương mù.
Những bài thơ tình trên lá
Từng mùa xanh biết trên tay
Những dấu sắc huyền hỏi ngã
Viết làm sao hết tình đầy ?
Một ngày cuối năm xuống phố
Mặt đường lá vẫn làm duyên
Dịu dàng bàn tay cúi nhặt
Nặng trĩu làm sao nỗi niềm...
18/3/08
Thiên Nam Đại Hiệp - Giới thiệu
Tác giả: Phan Cảnh Trung
==========================
Chịu trách nhiệm xuất bản: Trần Đình Việt
LỜI NHÀ XUẤT BẢN:
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, ngoài sự anh dũng hi sinh của quân và nhân dân yêu nước, chúng ta không thể không nhắc đến và ghi nhớ công ơn lớn lao của các hiệp khách võ lâm nước Nam, có thể được xem là những chiến sĩ tiên phong, đối đầu trực tiếp với các võ phái lừng danh Phương Bắc, cũng như các quan tướng nhà Minh - Trung Quốc lúc bấy giờ, được nhà Minh đưa sang Đại Việt nhằm tiêu diệt khí thế quật cường của cuộc khởi nghĩa.
Thời đó, dọc theo các vùng biên giới như Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn hoặc nội địa, ở đâu cũng có các lực lượng võ sĩ ngoại bang hoặc lực lượng võ sĩ phản động nội địa âm thầm hoặc công khai hoạt động. Các bang hội, giáo phái hoạt động riêng lẻ hoặc liên kết với nhau nhằm tiêu diệt võ lâm nước Nam. Trước âm mưu đó, các lực lượng võ lâm Đại Việt với những con người giàu nghị lực đầy mưu lược, đã đoàn kết, tạo thành lực lượng mạnh mẽ và mưu trí chống lại quyết liệt.
Quốc biến thức trung thần
Bần cùng tri hiếu tử.
Nổi lên trong bối cảnh của sự đoàn kết ấy, ta thấy được Phan Thanh, một thiếu niên công tử tài ba, mưu trí, đã nối chí vị đại hiệp tiền bối Trương Cảnh Đông, quyết chí miệt mài rèn luyện "Thập Tam Thức Đệ Nhất Đao" - một bí kíp võ học tuyệt đỉnh của nước Nam mà đã từng là mục tiêu săn đuổi, tranh giành khốc liệt giữa các võ phái - để phục vụ cho công việc tiêu diệt các võ phái tà đạo làm tay sai cho giặc; đồng thời, sử dụng số châu báu mà các quan nhà Nam đã tử chiến để bảo vệ làm cơ sở tiếp tế lương thực cho binh tướng của ông Lê Lợi.
Bên cạnh đó lại có nàng Thẩm Trinh sắc sảo với biệt danh "Thánh Cô Kim Trảo" đã từng gây kinh hoàng cho các đối thủ với tuyệt chiêu trảo công của mình.
Rồi lại Đoàn Phi - chàng thanh niên "Thiên Nam Đại Hiệp" tuấn tú khôi ngô đã thành danh trong "Chính khí Trời Nam" - cùng với phu nhân của mình là Lâm Quan Bảo Ngọc tái xuất giang hồ, hợp cùng Phan Thanh, Thẩm Trinh và các cao thủ võ lâm Đại Việt khác thành một lực lượng hùng hậu chống lại kẻ thù.
Tác giả Phan Cảnh Trung với ngòi bút sinh động, độc đáo, dẫn các độc giả đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, làm cho độc giả bị cuốn hút theo những mưu lược thâm thúy, hồi họp theo dõi những trận huyết chiến ác liệt giữa các hiệp khách Đại Việt với các võ sĩ của các môn phái đang tranh giành vị trí "Bá chủ võ lâm", đặc biệt là với các võ sĩ phục vụ cho mưu đồ thôn tính nước Đại Việt của nhà Minh.
Đây là bộ tiểu thuyết dã sử võ hiệp có những chi tiết hư cấu, do đó không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Kính mong các bậc cao minh tiền bối lượng tình chỉ giáo. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh xin trận trọng giới thiệu cùng quý độc giả.
Quả đấm miền sơn cước
Nguồn: http://www.hanoian.com/index.php?option=com_content&task=view&id=31&Itemid=9
============================
Written by Administrator
Jan 24, 2007 at 11:13 PM
Truyện ngắn này anh viết để tặng chú Hồ Bất Sầu. Đúng ra thì anh nợ chú Sầu một bài viết về Lưu vân cước. Nhưng nhân chuyến đi vừa rồi qua sa mạc và đèo núi ở Mỹ, anh có lái xe qua con đường Historic route 66, là con đường do những người đào vàng mở ra trong thời kỳ Cơn sốt vàng ở miền Tây mấy trăm năm trước, một kỷ niệm cũ lại nổi lên, thế là anh viết truyện ngắn này.
Quả đấm miền sơn cước (Truyện ngắn) Một buổi chiều cuối đông khoảng cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, trên dãy Hoàng Liên Sơn, trong ánh nắng chiều vàng nhạt, một gã thanh niên vóc người tầm thước, trạc 18, 19 tuổi, quần dõng, áo ga, chân đi giày vải, loay hoay chỉnh chỉnh, ngắm ngắm với một chiếc máy ảnh Praktica bên sườn đồi. Đối tượng trước ống kính của gã là một tốp khoảng chục người đàn ông đủ mọi lứa tuổi đang xoay trần cặm cụi đào bới trong một hố đất sâu cách đó vài ba chục mét, hì hục đổ từng xẻng đất vào một cái máng gỗ có nước chảy qua bên dòng suối. Họ là những kẻ đào vàng. Một thanh niên trong đám đào vàng ngừng tay, ngẩng đầu lên quệt mồ hôi trán. Bỗng hắn nhận thấy có kẻ đang chĩa ống kính máy ảnh về phía mình, liền hét lớn "Đ.m., có đứa chụp ảnh." Cả đám đào vàng ngừng phắt công việc, sững lại một giây nhìn kẻ quấy rối, rồi những tiếng hô hào, chửi bới đua nhau vang lên:"Thằng này khéo là nhà báo", "Có khi nó chụp về báo cớm cũng nên", "Đánh bỏ me nó đi anh em ơi", "Đánh", "Giết" ... Tiếp ngay sau những tiếng thét, đám đào vàng ào ào nhảy lên khỏi hố, cuốc xẻng lăm lăm, xông thẳng về phía gã thanh niên cầm máy ảnh. Gã thanh niên bừng tỉnh khỏi cơn mê nhiếp ảnh, đảo mắt nhìn quanh. Sườn đồi hoang vắng với mấy bụi cây lưa thưa, địa hình trống trải kéo dài hàng km, không biết khả năng chạy nhảy của đối phương ra sao, nếu bỏ chạy thì trước sau gì cũng bị chúng bắt kịp. Lúc đó đã mệt thì chắc chắn là ốm đòn, có khi bỏ mạng. Âu là hãy chiến đấu khi còn sung sức. Đút vội chiếc máy ảnh vào chiếc túi vải nhỏ đeo bên hông, gã thanh niên quay đầu rảo bước, tay xua xua vẻ sợ hãi "Em không làm gì. Các anh cho em xin". Đây là một chiến thuật mà người chiến binh lừng lẫy trong lịch sử Nhật bản Miyamoto Musashi đã áp dụng hơn 300 năm trước, trong một trận chiến một chọi tám mươi mốt kẻ thù. Trong tai gã thanh niên còn văng vẳng lời dặn dò của sư phụ, vốn là một giáo viên võ thuật của Cục Cảnh vệ K10 (*) : "Trong một trận đấu với nhiều địch thủ, nếu không có địa hình địa vật để lợi dụng, thì phải giả vờ bỏ chạy. Đối phương đuổi theo sẽ có kẻ nhanh người chậm, như vậy ta có thể chia nhỏ lực lượng của chúng thành từng nhóm nhỏ để tiêu diệt. Những kẻ nhanh nhất thường là hung hăng nhất, đánh gục những đứa này là bọn còn lại rét hết. Phải ra đòn dứt khoát và tàn độc cho bọn kia sợ hãi". Bọn đào vàng thấy thái độ hoảng hốt của gã thanh niên càng hung hăng xông tới. Gã thanh niên rảo bước chạy loanh quanh khu đồi được một đoạn ngắn, liếc mắt nhìn lại phía sau thấy hai tên hung hăng nhất đã tới rất gần, cách bọn phía sau một khoảng cách kha khá, gã liền tạt sang phải một bước, bất ngờ dừng lại. Hai tên đuổi theo hơi bất ngờ vì con thú săn đã rời khỏi đường chạy và đột nhiên dừng bước. Chúng khựng lại một phần giây đồng hồ, rồi vung cuốc, xẻng lên ... Nhưng đã quá muộn. Ngay khi vừa tạt sang phải, dừng lại, vẫn quay lưng về phía địch thủ, chân trái của gã thanh niên đã giơ thẳng lên, người quay nửa vòng, vung chân thành một đường vòng cung, bổ một đòn Lôi phong cước sấm sét vào đầu tên đào vàng phía trái gã. Chỉ nghe một tiếng khục ghê rợn, xương hàm của tên đào vàng vỡ vụn bởi cạnh bàn chân đi giày vải và hắn gục xuống không kịp kêu một tiếng. Tay của tên bên phải chưa kịp vươn hết đà chuẩn bị cho một cú vụt cuốc, thì hắn đã lãnh trọn một đòn Kim tiêu cước vào hạ bộ, lăn ra giãy đành đạch. Cách ra đòn Kim tiêu cước của gã thanh niên gia dĩ cũng có chỗ độc đáo. Trong Thiếu lâm chính tông, khi ra đòn Kim tiêu cước, người đá co đầu gối lên, lợi dụng sức bật của hông, đùi, đầu gối và cổ chân để tung ức bàn chân hoặc mũi bàn chân hoặc mu bàn chân đá thẳng ra phía trước. Gã thanh niên không co đầu gối, mà ngay khi chân trái gã kết thúc đòn Lôi phong cước, bàn chân vừa chạm đất, gã đã bật chân lên tung thẳng đòn Kim tiêu cước vào đối thủ thứ hai. Tất nhiên, lối đá này có suy giảm chút ít về lực do không tận dụng được tối đa sức bật của đầu gối, nhưng gã đã có gần một chục năm rèn luyện ròng rã, mỗi ngày đá hàng trăm ngọn cước vào bao cát, gốc cây, cột đá và đủ các loại mục tiêu, nên sự suy giảm về lực là không đáng kể. Trong khi đó, tốc độ chớp nhoáng của lối đá này là điều cực kỳ quan trọng trong những trận đấu sinh tử với nhiều địch thủ, khi mà khoảnh khắc giữa sự sống và cái chết chỉ là một phần giây đồng hồ. Hai tên bị hạ bằng hai ngọn cước không làm giảm sự hung hãn của bọn đào vàng say máu. Ba tên ở tốp tiếp theo đang đà chạy vẫn ào ào xông lại. Gã thanh niên lạng mình về phía trái, rút chân trái về phía sau, hơi nghiêng người chuẩn bị tung ra một đòn đá. Bỗng một thanh âm đơn điệu, buồn tẻ cách đó một đoạn cất lên: "Coi chừng Lưu vân cước". Gã thanh niên nhếch mép cười khẩy : "Quá muộn", chữ "muộn" chưa dứt, ức bàn chân phải của gã đi theo một đường vòng cầu đã giáng một đòn Lưu vân cước chí tử vào xương cạnh sườn của tên chạy đầu tiên. Chỉ nghe tiếng xương gãy rắc, rồi tên này gục xuống, miệng hộc ra một búng máu. Chân phải vừa chạm đất, gã thanh niên xoay người tung tiếp một đòn Hổ vĩ cước, gót chân trái tống thẳng vào giữa ức tên thứ hai, làm tên này văng ngược về sau mấy mét, xương ức gãy nát, nằm bẹp một đống. Tên thứ ba lúc này xông lại quá gần, thấy nguy hiểm nhưng chưa kịp phản ứng thì gã thanh niên đã dùng tay trái chạm nhẹ vào tay hắn làm cản đà vung của cán xẻng, tay phải tung một đòn Nanamé Shuto Uchi chém chéo cạnh bàn tay cứng như thép nguội vào hàm đối phương. Đòn Nanamé Shuto Uchi của gã thanh niên cũng không phải là một cú chém cạnh bàn tay thông thường của Karate, mà là một đòn sát thủ. Khi cạnh bàn tay phải của gã thanh niên chặt gãy hàm đối phương, thì ngón tay cái đang chĩa ra của gã cũng móc thẳng vào mi mắt hắn làm máu chảy ròng ròng. Lòng bàn tay trái của gã thanh niên vừa tì nhẹ vào cùi chỏ của tên đào vàng để chặn đà vung của cán xẻng, giờ vuốt ngược lên phía vai hắn, kết hợp bàn tay, cánh tay trước và khuỷu tay thành một đòn Atémi hiểm ác bẻ gãy tay phải tên đào vàng thành hai đoạn. Tay phải của gã thanh niên vừa rời khỏi hàm tên đào vàng liền tóm lấy tóc hắn kéo vào gần, tay trái của gã vẫn tiếp tục khóa cánh tay đã gãy của địch thủ, gã quay lưng đánh gót phải vào hạ bộ của kẻ xấu số, tiếp tục đà xoay kê hông vào ném hắn ra xa hai mét bằng một thế Uchi Mata của môn Nhu đạo. Đám còn lại là lũ a dua, theo đóm ăn tàn, thấy tình trạng thê thảm của bọn cầm đầu, bỏ chạy thì dở, đứng lại cũng không xong, ngần ngừ chưa quyết, thì gã thanh niên đã nhảy vọt mấy bước lùi lại phía sau thật xa, phẩy tay về phía năm thân thể đang lăn lộn, rên rỉ trên mặt đất, cất giọng khinh bỉ : "Khiêng chúng nó đi cho khỏi bẩn mắt ông!". Nhóm đào vàng xúm lại khiêng đồng bọn líu ríu chuồn mất. Gã thanh niên nghĩ thầm "Giờ mình cũng phải chuồn, không bọn nó về lôi thêm cha con họ hàng ra đây là bỏ cụ." Gã quay bước định đi về phía đường cái để vẫy xe bus về thị trấn, thì lại thanh âm đơn điệu, buồn tẻ khi nãy cất lên "Khá lắm." Gã thanh niên giờ đây mới nhận ra tiếng nói cảnh báo về đòn Lưu vân cước của gã không phải phát ra từ bọn đào vàng. Nhìn về phía phải cách đó vài chục thước, gã thấy một người dân tộc trạc gần 30 tuổi nằm khuất dưới tán một bụi cây dại ven đồi, chân tay duỗi thoải mái, có vẻ như đang ngái ngủ. Mặc dù đang tìm cách chuồn cho sớm, thói hài hước của gã thanh niên cũng buộc hắn phải buột ra một đoạn giễu gã vẫn quen dùng: "Cảm ơn bác đã có lời khen. Vừa nãy nhà em có làm điều gì không phải, bác làm ơn bác niệm tình bỏ quá cho, em cảm ơn. Giờ kính bác ở lại, em ngược." - Mày định đi đâu ? Gã thanh niên nhíu mày "việc quái gì đến nó?", nhưng rồi cũng đáp: - Em định đi bộ ra đường cái rồi vẫy xe bus về thị trấn. - Đây ra đường cái cũng phải 6, 7 cây số, mày đi chưa được nửa đường thì xe Minxk của bọn đào vàng đã vây kín đường ra rồi. Hùng tâm tráng chí của gã thanh niên bồng bột nổi lên: - Ở lại thì chắc chắn chết. Ra đi thì may ra không chết. Ai mà chả có một lần, để em đi cho sớm chợ. Nếu có làm sao, ít nhất là hai chục mạng nữa cũng sẽ theo em. - Đồ ngu. Bây giờ mày đi theo tao về nhà cho qua tối nay, rồi mai sớm tao dẫn mày theo đường mòn ra khỏi núi ở phía bên kia, khi đó mày tha hồ mà vẫy xe đi đâu tùy thích. Vẫn quen chửi bới người khác là đồ ngu, nhưng do tính tình hào sảng, nên khi bị chửi, gã thanh niên cũng không lấy đó làm điều. Ngẫm nghĩ mấy giây, gã gật đầu: - Em đi theo bác. Hai người lầm lũi đi xuyên qua mấy vạt đồi về phía dãy núi, đến một căn lều tranh cô độc nằm trên lưng chừng dốc của một vách đá. Người dân tộc lẳng lặng thổi lửa, nấu cơm, hâm nồi thịt lợn bắc sẵn trên bếp, luộc qua quít một ít rau trong vườn nhà rồi dọn tất cả ra một ván gỗ. Gã quơ tay vào góc cột lôi ra một vò rượu, rót ra hai chiếc bát sành, bảo gã thanh niên: - Ngồi vào đây ăn cơm với tao. Gã thanh niên vốn quen cảnh sống lang bạt kỳ hồ, nay đây mai đó nên cũng không khách sáo: - Vâng, em xin bác. Họ ăn uống trong im lặng. Được một lúc, sau một bát rượu xá nùng (**), gã thanh niên bắt đầu cảm thấy thoải mái hơn, lân la bắt chuyện: - Sao hồi chiều bác nhận ra là em sắp tung ra đòn Lưu vân cước? Sự việc xảy ra chỉ trong chớp mắt, và từ trước đến nay, đối thủ của em chỉ nhận ra Lưu vân cước khi ngọn cước đã chạm vào người. Người dân tộc chỉ mỉm cười, lắc đầu, rót thêm rượu vào hai chiếc bát. Sau khi hai người nhấm nháp một lúc lâu, người dân tộc mới lên tiếng: - Mày khá lắm. Chỉ tiếc cái khí của mày còn hăng quá. Gã thanh niên giật mình, hỏi: - Sao bác nói thế ? Ánh mắt người dân tộc mơ màng: - Khi ra đòn, mày muốn nuốt sống người ta. - Trong chiến đấu, chúng nó không chết thì em chết. - Đành rằng là thế. Nhưng cái khí của mày có thể hăng thì cũng có thể nhụt. Mày để người khác nhìn thấy cái khí của mày, thì người ta cũng có thể dùng nó để làm hại mày. Gã thanh niên giật mình thêm lần nữa :"Vẫn biết rằng trên vùng núi phía bắc có nhiều cao thủ võ lâm, tưởng chỉ về quyền cước, không ngờ lại có người uyên bác đến bậc này.". Gã mon men gạ gẫm: - Thế bác có lời khuyên gì cho em không? Hay bác cho em xem vài đường quyền cước cho em học hỏi? Người dân tộc lại im lặng uống rượu. Đêm về khuya. Bỗng người dân tộc từ từ đứng dậy: - Tao mến mày, không muốn cái khí hăng của mày cản đường tiến bộ. Tao sẽ cho mày xem một quả đấm. Gã thanh niên vẫn còn cái bồng bột của thanh niên 18, nghĩ thầm :"Tưởng gì, một kẻ rèn luyện gần chục năm trời, qua toàn bộ bộ tay của Karate, Thiếu lâm Nam phái, 108 thế biến hóa của Vĩnh Xuân,các quả đấm của môn Quyền Anh và các thế tay của võ thuật công an thì còn lạ quái gì quả đấm." Tuy nghĩ thế, nhưng bề ngoài gã vẫn lạnh lùng, ung dung đứng dậy. Trong căn lều chật hẹp, hai người đứng cách nhau khoảng trên hai mét. Người dân tộc lên tiếng: - Bây giờ mày có thể dùng bất kỳ đòn thế gì tùy thích để đỡ, tao chỉ đấm mày một quả vào mặt. Gã thanh niên mỉm cười, nghĩ thầm "Mình đã biết trước cả mục tiêu thế này thì còn gì mà đánh nữa.". Tuy thế, gã vẫn cẩn thận: - Bác nhẹ tay cho. Đoạn gã rút chân phải về phía sau, hai chân hơi chùng xuống, hai tay thủ phía trước theo thế tấn Trắc thân kiềm dương mã của môn Vĩnh Xuân. Người dân tộc cũng vào một thế đứng hơi chùng người, mộc mạc, trông có vẻ không ra một tư thế gì cả. Gã thanh niên nhìn thẳng vào mắt đối thủ, nghĩ thầm :" Hiện giờ mình còn ở ngoài cả tầm đá. Hắn muốn đấm tất phải tiến lại gần. Dù phản xạ của hắn nhanh đến mấy, thì mình cũng thừa thời gian dùng đòn Nami Gaeshi chặn cạnh bàn chân vào đầu gối làm hắn không tiến sát vào được, hoặc dùng một ngọn cước đá thẳng vào hắn khi hắn chưa tới tầm đấm. Hắn nói chỉ đấm một lần, mình đẩy lui hắn một lần là ổn." Giác quan gã thanh niên cảnh giác cực độ, tinh thần tỉnh táo, thân thể thả lỏng, hơi thở điều hòa. Không gian vắng lặng,chỉ có tiếng côn trùng kêu rả rích trong đêm. Không rõ do trời đêm hay điều gì, gã thanh niên bỗng thấy nôn nao một phần giây đồng hồ, rồi gã nhận ra người dân tộc đang di chuyển vào trong tầm đấm. Một quả đấm tay phải từ từ tung ra bay thẳng vào mặt gã. Gã thanh niên nhìn thấy quả đấm từ từ tiến tới khuôn mặt mình, nhưng không kịp đỡ. Bộp một tiếng, quả đấm đập khẽ vào mặt gã. Gã thanh niên bàng hoàng sửng sốt. Đành rằng nếu quả đấm nhanh như chớp giật, gã không kịp đỡ thì ra một nhẽ. Đằng này gã thấy quả đấm bay lại từ từ, đến lúc muốn phản ứng thì lại không kịp. Người dân tộc lui ra, bật cười thành tiếng: - Tự nhiên như cây cỏ, như đá, như nước, như mây, thì đối thủ không thấy mày làm gì, không biết mày ở đâu, không có cách nào tránh được. Hai người uống thêm một vài bát rượu rồi mỗi người một góc ngủ say như chết. Sáng hôm sau, người dân tộc đưa gã thanh niên xuống núi.
HẾT.
--------------------------------------------